Lao là một bệnh lây nhiễm, do vi khuẩn lao gây ra. Đường lây truyền bệnh chủ yếu là qua không khí trực tiếp từ mũi họng của người này sang mũi họng của người khác và nơi xâm nhập đầu tiên của vi khuẩn khi vào cơ thể lả phổi. Vi khuẩn lao lại có đặc tính rất hiếu khí tức là rất ưa thích nơi chứa nhiều không khí, chẳng hạn như phổi. Có đến 80% người mắc bệnh lao lả lao phổi; 20% còn lại là lao ở các cơ quan khác như lao màng não, lao màng phổi, lao xương, lao khớp, lao thận, lao đường tiểu, lao hạch...gọi chung là lao ngoài phổi, mỗi thể lao đều có những dấu hiệu riêng của nó.
- Ho kéo dài, thường chỉ ho khúc khắc dai dẳng chứ hiếm khi ho dữ dội.
- Khạc đàm đục, có khi đàm lẫn ít máu.
- Ho ra máu: ho khạc toàn máu đỏ tươi, số lượng có thể ít khoảng chừng một vài muỗng hoặc nhiều (ước lượng cỡ chén hoặc tô...).
- Cảm giác khó thờ, tức ngực, nặng ngực.
Đôi khi triệu chứng của bệnh lao rất mơ hồ khó nhận biết:
- Cảm giác mỏi mệt toàn thân
- Ăn không thấy ngon miệng
- Sụt cân không có nguyên do rõ rệt.
- Sốt nhẹ dai dẳng, thường về buổi chiều hoặc không sốt mà chỉ có cảm giác gây gấy ớn lạnh.
Khi nào nên đi khám bệnh? Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới: Nếu thấy ho khạc kéo dài trên ba tuần, uống thuốc ho thông thường không khỏi, kèm thêm mỏi mệt hoặc sốt nhẹ về chiều thì nên đi khám bệnh và làm xét nghiệm đàm tại cơ sở y tế địa phương.
- Chụp X-quang phổi: Hình ảnh tổn thương trên phổi do lao thường nằm ở phía trên của phổi (đỉnh phổi) và thường có những “lỗ trống” trên phổi gọi là hang lao. Những “lỗ trống” này được tiếp xúc nhiều với dưỡng khí nên trở thành môi trường lý tưởng cho vi trùng sống mạnh và gia tăng số lưựng. Mọi bệnh nhân có kết quả X-quang không bình thường đều cần được thử nghiệm đàm để kiếm vi khuẩn gây bệnh.
- Tìm vi khuẩn lao trong đàm: đây là thử nghiệm khá chính xác để chẩn đoán lao phổi, lại rẻ tiền, dễ thực hiện, thích hợp với các quốc gia đang phát triển. Xét nghiệm tìm khuẩn lao trong đàm là tiêu chuẩn quan trọng để điều trị bệnh lao sớm. Đề xét nghiệm đàm đúng quy cách và cho kết quả đúng, người bệnh nên lấy mẩu đàm vào buổi sáng sớm mới vừa thức dậy và nên thử đàm nhiều lần (2 hoặc 3 lần, mỗi lần thử cách biệt nhau chứ không nên khạc thử ngay một lúc 2 - 3 mẩu đàm). Một số trường hợp tìm vi khuẩn lao trực tiếp bằng kính hiển vi khó khăn sẽ được thay thế bằng kỹ thuật nuôi cấy trong môi trường đặc biệt.
Việc định bệnh sớm là điều rất cần thiết để người bệnh được chữa trị bệnh sớm, để mau khỏi bệnh và ít phải chịu đựng những ảnh hưởng nặng nề của bệnh trên hai lá phổi. Đứng về mặt xã hội và lao cộng đồng, định bệnh và chữa trị bệnh sớm sẽ giảm bớt được sự lây lan bệnh trong cộng đồng. Trung bình một người mắc bệnh mà không được chữa trị sẽ làm lây lan bệnh cho khoảng 12 đến 15 người trong một năm. Như vậy cứ một người bệnh được phát hiện trễ sẽ làm lây lan ra nhiều người xung quanh và những người này lại được phát hiện trễ, sự việc cứ thế nhân lên...
Có khi vi khuẩn lao đã gây bệnh tại phổi nhưng người bệnh chưa được phát hiện và chữa trị nên vi khuẩn tiếp tục sinh sôi phát triển và lan tới những cơ quan khác của cơ thể. Khi đó người bệnh vừa bị lao phổi, vừa bị lao ở cơ quan khác và bệnh tình thường khá trầm trọng. Cũng có trường hợp vi khuẩn lao chỉ “quá cảnh" tại phổi mà không gây bệnh tại phổi, sau đó, theo dòng máu mà đi đến nhiều cơ quan trong cơ thể và gây bệnh tại các cơ quan này. Mỗi thể bệnh lao ngoài phổi đều có những biểu hiện riêng biệt khác nhau. Vi dụ:
- Lao màng não: Người bệnh thường nhức đầu, nóng sốt, buồn nôn và nôn ói nhiều. Có khi lú lẫn, hay quên hoặc nặng hơn là lừ đừ, hỏi trả lời chậm chạp, ngủ gà (nằm ngủ nhiều cả ngày, khi lay gọi thì mở mắt ra trả lời), li bi hoặc hôn mê.
- Lao kê: Vi khuẩn lao theo đường máu đi đến nhiều nơi trong cơ thể tạo thành những nốt li ti ở nhiều cơ quan như phổi, gan, lách... Lao kê được xem là thể bệnh lao khá nặng còn được gọi là lao toàn thể, và thường hay đi kèm với lao màng não.
- Lao thận - Lao tiết niệu; Giai đoạn đầu bệnh rất âm thầm, về sau có nóng sốt nhẹ, tiểu lắt nhắt, tiểu buốt, tiểu ra máu. Nếu để lâu không chữa trị, vi khuẩn lao sẽ lan từ một thận qua hai thận, lan sang các ống dẫn tiểu, bàng quang dẫn đến lao toàn bộ cơ quan tiết niệu.
- Lao sinh dục: Vi khuẩn lao có thể đến cơ quan sinh dục từ đường máu hoặc đi từ các bộ phân lân cận đã bị nhiễm lao. ở nam giới có thề lao túi tinh, mào tinh hoàn, dương vật; ở nữ thường có lao ống dẫn trứng, tử cung, cổ tử cung, âm đạo...Lao sinh dục - dù ở nam hay nữ - là một trong những nguyên nhân gây vô sinh. Riêng ở nữ, lao sinh dục có thể gây ra bệnh lao của bào thai khi còn đang nằm trong tử cung người mẹ và bất hạnh làm sao, đứa bé sẽ bị bệnh lao ngay từ khi mới chào đời.
- Lao xương khớp; Vi khuẩn lao theo đường máu đến xương hoặc khớp và gây ra đau đớn tại vùng xương khớp bị lao. Xương hay bị tổn thương nhất lả cột sống sẽ gây ra biến dạng đốt sống, lâu ngày dẫn đến gù vẹo cột sống. Bộ phận lân cận của cột sống là tủy sống rất dễ bị ảnh hưởng do gù vẹo cột sống hoặc ổ mủ lao chèn ép.
- Lao đường ruột: Vi khuẩn lao xâm nhập vào đường tiêu hóa rồi gây ra các triệu chứng như đau bụng âm ỉ, tiêu chảy dai dẳng, có thể gây tắc ruột hoặc biến chứng nặng như thủng ruột, viêm phúc mạc... Những trường hợp này phải mổ cấp cứu mới giữ được tinh mạng.
- Lao màng phổi, lao màng bụng, lao màng tim: Vi khuẩn lao đến gây bệnh tại các màng này trong cơ thể làm cho chúng bị viêm và tiết ra nhiều dịch. Nếu lao ở màng phổi hoặc màng tim, người bệnh sẽ có triệu chứng sốt, ớn lạnh, mệt mỏi, cảm giác tức ngực khó thở do tràn dịch màng phổi hoặc tràn dịch màng tim. Nếu thấy bụng nặng nề và to dần có thể có tràn dịch màng bụng. Nếu người bệnh đi khám sớm sẽ được các bác sĩ làm các thủ thuật để lấy dịch ra làm xét nghiệm.
- Lao hạch: Đây là thể bệnh lao tương đối nhẹ nhất với biểu hiện hạch bị lao sưng to lên. Thường gặp ở các hạch dọc hai bên cổ và vùng trên xương đòn, hạch ở hai bên nách... Hạch lao thường không gây đau nên đôi khi bị bỏ qua, lâu ngày hạch xi mủ ra ngoài da tạo thành vết loét không lành.
Trong khi bệnh lao phổi rất dễ gây lây nhiễm qua đường hô hấp do vi khuẩn lao từ phổi bị bắn ra ngoài do người bệnh ho khạc, hắt hơi, nói chuyện..., thì ngược lại, các thể bệnh lao ngoài phổi thường ít khi gây lây nhiễm cho người xung quanh.
BỆNH LAO PHỔI
Phát hiện bệnh Bệnh lao phổi thường xuất hiện ờ những người nghèo, mức thu nhập thấp, điều kiện sống kém, nhà cửa chật chội, không thoáng khí. Những người này thường mải lo mưu sinh mà không chú ý đến sức khỏe của minh, nên bệnh chỉ phát hiện khi có những biểu hiện nặng do diễn tiến lâu ngày. Để phát hiện sớm bệnh lao phổi, cần căn cứ vào những dấu hiệu thay đổi của cơ thể như;- Ho kéo dài, thường chỉ ho khúc khắc dai dẳng chứ hiếm khi ho dữ dội.
- Khạc đàm đục, có khi đàm lẫn ít máu.
- Ho ra máu: ho khạc toàn máu đỏ tươi, số lượng có thể ít khoảng chừng một vài muỗng hoặc nhiều (ước lượng cỡ chén hoặc tô...).
- Cảm giác khó thờ, tức ngực, nặng ngực.
Đôi khi triệu chứng của bệnh lao rất mơ hồ khó nhận biết:
- Cảm giác mỏi mệt toàn thân
- Ăn không thấy ngon miệng
- Sụt cân không có nguyên do rõ rệt.
- Sốt nhẹ dai dẳng, thường về buổi chiều hoặc không sốt mà chỉ có cảm giác gây gấy ớn lạnh.
Khi nào nên đi khám bệnh? Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới: Nếu thấy ho khạc kéo dài trên ba tuần, uống thuốc ho thông thường không khỏi, kèm thêm mỏi mệt hoặc sốt nhẹ về chiều thì nên đi khám bệnh và làm xét nghiệm đàm tại cơ sở y tế địa phương.
Định bệnh lao
Khi nghi ngờ bị bệnh lao, bác sĩ sẽ làm những xét nghiệm đễ xác định bệnh như:- Chụp X-quang phổi: Hình ảnh tổn thương trên phổi do lao thường nằm ở phía trên của phổi (đỉnh phổi) và thường có những “lỗ trống” trên phổi gọi là hang lao. Những “lỗ trống” này được tiếp xúc nhiều với dưỡng khí nên trở thành môi trường lý tưởng cho vi trùng sống mạnh và gia tăng số lưựng. Mọi bệnh nhân có kết quả X-quang không bình thường đều cần được thử nghiệm đàm để kiếm vi khuẩn gây bệnh.
- Tìm vi khuẩn lao trong đàm: đây là thử nghiệm khá chính xác để chẩn đoán lao phổi, lại rẻ tiền, dễ thực hiện, thích hợp với các quốc gia đang phát triển. Xét nghiệm tìm khuẩn lao trong đàm là tiêu chuẩn quan trọng để điều trị bệnh lao sớm. Đề xét nghiệm đàm đúng quy cách và cho kết quả đúng, người bệnh nên lấy mẩu đàm vào buổi sáng sớm mới vừa thức dậy và nên thử đàm nhiều lần (2 hoặc 3 lần, mỗi lần thử cách biệt nhau chứ không nên khạc thử ngay một lúc 2 - 3 mẩu đàm). Một số trường hợp tìm vi khuẩn lao trực tiếp bằng kính hiển vi khó khăn sẽ được thay thế bằng kỹ thuật nuôi cấy trong môi trường đặc biệt.
Việc định bệnh sớm là điều rất cần thiết để người bệnh được chữa trị bệnh sớm, để mau khỏi bệnh và ít phải chịu đựng những ảnh hưởng nặng nề của bệnh trên hai lá phổi. Đứng về mặt xã hội và lao cộng đồng, định bệnh và chữa trị bệnh sớm sẽ giảm bớt được sự lây lan bệnh trong cộng đồng. Trung bình một người mắc bệnh mà không được chữa trị sẽ làm lây lan bệnh cho khoảng 12 đến 15 người trong một năm. Như vậy cứ một người bệnh được phát hiện trễ sẽ làm lây lan ra nhiều người xung quanh và những người này lại được phát hiện trễ, sự việc cứ thế nhân lên...
Bệnh lao ở các cơ quan khác
Có khi vi khuẩn lao đã gây bệnh tại phổi nhưng người bệnh chưa được phát hiện và chữa trị nên vi khuẩn tiếp tục sinh sôi phát triển và lan tới những cơ quan khác của cơ thể. Khi đó người bệnh vừa bị lao phổi, vừa bị lao ở cơ quan khác và bệnh tình thường khá trầm trọng. Cũng có trường hợp vi khuẩn lao chỉ “quá cảnh" tại phổi mà không gây bệnh tại phổi, sau đó, theo dòng máu mà đi đến nhiều cơ quan trong cơ thể và gây bệnh tại các cơ quan này. Mỗi thể bệnh lao ngoài phổi đều có những biểu hiện riêng biệt khác nhau. Vi dụ:
- Lao màng não: Người bệnh thường nhức đầu, nóng sốt, buồn nôn và nôn ói nhiều. Có khi lú lẫn, hay quên hoặc nặng hơn là lừ đừ, hỏi trả lời chậm chạp, ngủ gà (nằm ngủ nhiều cả ngày, khi lay gọi thì mở mắt ra trả lời), li bi hoặc hôn mê.
- Lao kê: Vi khuẩn lao theo đường máu đi đến nhiều nơi trong cơ thể tạo thành những nốt li ti ở nhiều cơ quan như phổi, gan, lách... Lao kê được xem là thể bệnh lao khá nặng còn được gọi là lao toàn thể, và thường hay đi kèm với lao màng não.
- Lao thận - Lao tiết niệu; Giai đoạn đầu bệnh rất âm thầm, về sau có nóng sốt nhẹ, tiểu lắt nhắt, tiểu buốt, tiểu ra máu. Nếu để lâu không chữa trị, vi khuẩn lao sẽ lan từ một thận qua hai thận, lan sang các ống dẫn tiểu, bàng quang dẫn đến lao toàn bộ cơ quan tiết niệu.
- Lao sinh dục: Vi khuẩn lao có thể đến cơ quan sinh dục từ đường máu hoặc đi từ các bộ phân lân cận đã bị nhiễm lao. ở nam giới có thề lao túi tinh, mào tinh hoàn, dương vật; ở nữ thường có lao ống dẫn trứng, tử cung, cổ tử cung, âm đạo...Lao sinh dục - dù ở nam hay nữ - là một trong những nguyên nhân gây vô sinh. Riêng ở nữ, lao sinh dục có thể gây ra bệnh lao của bào thai khi còn đang nằm trong tử cung người mẹ và bất hạnh làm sao, đứa bé sẽ bị bệnh lao ngay từ khi mới chào đời.
- Lao xương khớp; Vi khuẩn lao theo đường máu đến xương hoặc khớp và gây ra đau đớn tại vùng xương khớp bị lao. Xương hay bị tổn thương nhất lả cột sống sẽ gây ra biến dạng đốt sống, lâu ngày dẫn đến gù vẹo cột sống. Bộ phận lân cận của cột sống là tủy sống rất dễ bị ảnh hưởng do gù vẹo cột sống hoặc ổ mủ lao chèn ép.
- Lao đường ruột: Vi khuẩn lao xâm nhập vào đường tiêu hóa rồi gây ra các triệu chứng như đau bụng âm ỉ, tiêu chảy dai dẳng, có thể gây tắc ruột hoặc biến chứng nặng như thủng ruột, viêm phúc mạc... Những trường hợp này phải mổ cấp cứu mới giữ được tinh mạng.
- Lao màng phổi, lao màng bụng, lao màng tim: Vi khuẩn lao đến gây bệnh tại các màng này trong cơ thể làm cho chúng bị viêm và tiết ra nhiều dịch. Nếu lao ở màng phổi hoặc màng tim, người bệnh sẽ có triệu chứng sốt, ớn lạnh, mệt mỏi, cảm giác tức ngực khó thở do tràn dịch màng phổi hoặc tràn dịch màng tim. Nếu thấy bụng nặng nề và to dần có thể có tràn dịch màng bụng. Nếu người bệnh đi khám sớm sẽ được các bác sĩ làm các thủ thuật để lấy dịch ra làm xét nghiệm.
- Lao hạch: Đây là thể bệnh lao tương đối nhẹ nhất với biểu hiện hạch bị lao sưng to lên. Thường gặp ở các hạch dọc hai bên cổ và vùng trên xương đòn, hạch ở hai bên nách... Hạch lao thường không gây đau nên đôi khi bị bỏ qua, lâu ngày hạch xi mủ ra ngoài da tạo thành vết loét không lành.
Trong khi bệnh lao phổi rất dễ gây lây nhiễm qua đường hô hấp do vi khuẩn lao từ phổi bị bắn ra ngoài do người bệnh ho khạc, hắt hơi, nói chuyện..., thì ngược lại, các thể bệnh lao ngoài phổi thường ít khi gây lây nhiễm cho người xung quanh.