Những trận dịch hoành hành
Khoảng giữa thế kỷ thứ 18, bệnh lao bùng nổ ở Anh quốc, sau đó lan tràn rồi trở thành bệnh dịch ở châu Âu và có đến gần một phần tư số tử vong. Bệnh lao được xem là căn bệnh nghiêm trọng nhất của thế kỳ thứ 19 và là nỗi ám ảnh đáng sợ để lại dấu ấn trong nhiều tác phẩm văn học như Đỉnh gió hú (VVuthering Heights) của Emily Bronte, Trà Hoa Nữ (La Dameaux Camelias của Alexandre Dumas 1824 - 1895)... trong đó các nhà văn mô tả: bệnh nhân ốm yếu dần, thỉnh thoảng ho, khạc đàm, đau giữa hai vai, đổ mồ hôi nhiều về ban đêm. Lúc này người ta chưa hiểu được nguyên nhân của bệnh và cho rằng đây là căn bệnh của những nhà quý tộc, những bậc tinh hoa, của những người lãng mạn nhưng yếu ớt như Aiglon con trai của Napoleon đệ nhất, bà Beaumont, nhà soạn nhạc ChopinNăm 1819, Rene Laennec, người Pháp, lần đầu tiên phát minh ra ống nghe. Nhờ đó, các y sĩ có thể nghe được tiếng kêu khô ráp của hai lá phổi khi mới mắc bệnh (ran nổ) hay tiếng òng ọc hay tiếng ồ ồ của âm thổi hang, âm thổi ống của những bệnh nhân ở giai đoạn cuối. Khi giải phẫu tử thi, người ta nhận thấy có những nốt màu trắng tràn đầy hai lá phổi, có những nốt hóa mềm như ‘miếng phó mát bị đè nát’, bên cạnh có những lỗ hổng lớn không chứa gì hoặc chứa một chất lỏng. Phổi bị tàn phá nặng nề và không thể chứa đầy không khí.
Cuộc cách mạng kỳ diệu
Năm 1882, bác sĩ Robert Koch người Đức (1843 - 1910) lần đầu tiên phát hiện ra trực khuẩn gây bệnh lao, cấy được vi khuẩn lao ở ngoài cơ thể và gây được bệnh lao trên súc vật thi nghiệm. Năm 1905, ông được nhận giải thưởng Nobel Sinh lý và Y học về những phát hiện về bệnh lao và vi khuẩn lao cũng được gọi theo tên ông (Bacille de Koch).Từ khi phát hiện được vi khuẩn gây bệnh lao và biết được phương thức lây truyền bệnh là qua đường hô hấp, sự lan truyền của căn bệnh có phần nào chững lại. Người ta đã biết đến những cách thức cách ly người bệnh dù là còn sơ đẳng. Giới trường giả, quý tộc hoảng hốt đuổi ngay người hầu khi họ bắt đầu ho. Các y sĩ chữa trị những người giáu có bằng cách khuyên họ ăn uống, tầm bỗ, nghỉ ngơi và hít thở gió biển.
Năm 1895, Konrad von VVilhelm Roentgen phát minh ra cách chụp phim Xquang. Nhờ đó hình ảnh hai lá phổi bị bệnh được quan sát rõ ràng hơn và người bệnh được chẩn đoán bệnh chính xác hơn. Cũng vào thời này người ta nhận thấy phổi bị xẹp lại mang lại những kết quả tốt hơn cho người bệnh vì sẽ không có đủ không khí cần thiết cho vi khuẩn lao - vốn là loại vi khuẩn hiếu khí - phát triển. Trong thập niên 1920, kỹ thuật gây tràn khí màng phổi nhân tạo và phẫu thuật đánh sập xương sườn gây xẹp phổi khá phổ biến và mang lại một số kết quả tuy khiêm tốn nhưng rất đáng quý trong thời kỳ này.
Năm 1921, hai nhà bác học người Pháp Albert Calmette (1863 - 1933) và Camille Gúerin (1872 - 1961) phân lập được vi khuẩn lao bò là một chủng vi khuẩn lao có độc lực thấp và dựa vào chủng vi khuẩn này chế tạo được thuốc chủng ngừa lao BCG (Bacille Calmette Gúerin).
Năm 1943, nhà bác học Selman A. VVaksman thuộc Đại học Rutgers, New Jersey, Hoa kỳ, và bác sĩ Albert Schatz tìm thấy một loại kháng sinh diệt khuẩn mới chiết xuất từ một nấm Streptomycès griseus đặt tên là streptomycin. Khởi đầu, Streptomycin cho thấy hữu hiệu trong điều trị bệnh dịch tả, thương hàn và một số bệnh nhiễm khuẩn khác. Nhưng có những ca bệnh đang được điều trị với streptomycin cho thấy những biểu hiện cải thiện rõ rệt sau vài tháng đầu lại bắt đầu chững lại và tiến triển xấu dần đi. Các nhà bác học sửng sốt, kinh ngạc và cuối cùng tìm ra thủ phạm chính là tình trạng vi
khuẩn kháng với thuốc chắc chắn sẽ xảy ra khi chỉ dùng một loại thuốc điều trị lao đơn độc.
Kỷ nguyên mới - Hoá trị liệu lao
May mắn thay, sau streptomycin, một loạt các thứ thuốc diệt vi khuẩn lao lần lượt ra đời: PAS năm 1949, lsoniazid năm 1952, Pyraánamide năm 1954, Cycloserin 1955, Ethambutol 1962 và Riíampicin 1963. Điều này cho phép dễ dàng phối hợp 2 hoặc 3 loại thuốc kháng lao với nhau và đem lại thành công đáng khích lệ. Mặc dù tổng thời gian điều tri kéo dài khoảng 12 tháng - 24 tháng, bệnh lao giờ đây đă có thể trị khỏi hoàn toàn. Con người đã quên đi nỗi sợ hãi khi nghe nhắc đến tên bệnh.Trong khi triển vọng tiêu diệt hoàn toàn bệnh lao tràn đầy hy vọng ờ các nước phát triển thì căn bệnh này vẫn tiếp tục hoành hành tại các nước thuộc thế giới thứ ba, mỗi năm giết khoảng 2-3 triệu người. Trình độ dân trí thấp, tài chính eo hẹp khiến cho nhiều người bệnh bỏ ngang việc điều trị vì không hiểu biết hoặc vì không cáng đáng nổi chi phí điều trị. Người dân ở các nước này vi mãi bận rộn với cuộc mưu sinh nên cũng chưa quan tâm đến sức khỏe của mình, chỉ đến khám khi bệnh đã diễn tiến rất lâu ngày khiến cho việc điều trị khó khăn hơn và khả năng lây lan bệnh cho người khác nhiều hơn.
Năm 1978, Hiệp hội Chống lao Thế giới triển khai Chương trinh Chống lao Quốc gia tại 9 nước có thu nhập thấp. Đây cũng là cơ sở bước đầu của chiến lược điều trị DOTS, tức là hoá tri liệu ngắn ngày có kiểm soát, số bệnh nhân được điều trị khỏi bệnh hoàn toàn ở các nước nghèo tăng lên một cách đáng mừng. Năm 1986, Hiệp hội chống lao quốc tế, trước triển vọng bệnh lao đang thoái triển đã nêu khẩu hiệu “Chiến thắng bệnh lao ngay bây giờ và vĩnh viễn” và đã đề cập đến việc thanh toán hoàn toàn bệnh lao trên toàn thế giới (như đã từng làm với đối với bệnh đậu mùa).
Nhưng chỉ bốn năm sau, năm 1990, tại Boston (Hoa Kỳ) người ta đã thông báo bệnh lao đang tăng lên ớ một số nước kể cả ở Mỹ. Các nhà khoa học nhanh chóng tìm thấy mối liên quan: Suy giảm miễn dịch mắc phải do nhiễm virus HIV sẽ làm giảm sức đề kháng của cơ thể và làm người bệnh dễ mắc các bệnh nhiễm trùng, trong đó lao là căn bệnh nhiễm trùng thường gặp nhất ở những bệnh nhân nhiễm HIV.
Ngoài ra, cùng với đại dịch HIV-AIDS, lao phổi kháng thuốc cũng là một vấn nạn toàn cầu và là một thách thức mới cho cuộc chiến đấu chống lại căn bệnh đáng sợ của nhân loại. Có khoảng 185000 đến 415000 ca lao kháng thuốc mới hàng năm và xuất hiện nhiều vi khuẩn đa kháng thuốc, siêu kháng thuốc rất đáng sợ. Năm 2000, tại Nam Phi đã có một cuộc họp quan trọng của các nhà khoa học nhằm tìm kiếm thuốc kháng lao mới. Đã có một số thuốc điều trị lao mới có triển vọng nhưng việc thử nghiệm lâm sàng vẫn chưa hoàn tất và cuộc chiến chống lại bệnh lao vẫn còn nhiều cam go phía trước.
Tại Việt Nam
Nhà nước và Bộ Y tế đã quyết định đưa Chương trình chống lao thành một trong những Chương trình y tế Quốc gia trọng điểm. Ban chỉ đạo chương trình chống lao và chính quyền địa phương các cấp đã tham gia tích cực triển khai công tác này, cùng với sự hợp tác và giúp đỡ có hiệu quả về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế.Để giảm số người nhiễm lao mới, Chương trinh chống lao quốc gia tiếp tục mờ rộng lồng ghép các dịch vụ y tế tại cộng đồng với công tác phòng chống lao tại các huyện miền núi, vùng sâu vùng xa, tăng cường phối hợp với chương trình phòng chống HIV nhằm làm giảm gánh nặng bệnh ỉao trong người có HIV.
Nguy cơ nhiễm lao hàng năm ờ nước ta ước tính lả 1,5% (ờ các tỉnh phía Nam là 2%, ờ các tỉnh phía Bắc là 1%).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét